Đề Dẫn THAM LUẬN CỦA TRƯỞNG BAN GDPG Tỉnh Bình Phước
Ban GDPGBP xin trình bày trước Đại Chúng Hội vài điều ý tưởng trong phiên Hội Thảo Chuyên đề GDPG hôm nay, kính mong Đại Chúng Hội Nghị Tri Tường và góp ý
1.TIÊU CHÍ NỘI DUNG HỘI THẢO GIÁO DỤC PHẬT GIÁO TỈNH BÌNH PHƯỚC: Định Hướng Đề Dẫn Nội Dung Giáo dục Phật giáo là định hướng con đường tu học cho Tăng ni, Phật tử trên nền tảng Giới – Định – Tuệ để đạt đến sự giác ngộ và giải thoát. Đó là một quá trình y cứ vào Tam Tạng Kinh Điển để tổ chức các hoạt động dạy và học, nhằm truyền bá chánh pháp đến hàng đệ tử Phật giúp cho họ có được những nhận thức đúng đắn về các giá trị sống, từ đó có những thay đổi về hành vi, nhận thức, có những ứng xử phù hợp trong cuộc sống, hướng tới giá trị an lạc, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và tương lai.Kính bạch Chư Tôn Đức!
Trong bối cảnh Đại dịch Covid 19 & Tình hình an ninh quốc phòng toàn cầu diễn ra rất phức tạp, nhiều diễn biến về kinh tế, chính trị, tôn giáo trên cả nước có chiều hướng gia tăng luồng tư tưởng tôn giáo mới. Hôm nay, chúng tôi xin được đề dẫn chủ đề; “Giáo Dục truyền thống Phật giáo và Trách Nhiệm Của Chúng ta”.
NỘI DUNG HỘI THẢO
Theo W. O. Lester Smith, Giáo Sư Ðại Học Luân Ðôn, Chủ Tịch Hội nghiên cứu giáo dục Anh Quốc đã nói: “Khi nghĩ về giáo dục chúng ta không được quên rằng giáo dục có tính cách trưởng thành của một cơ thể sinh động. Trong khi có những tùy thuộc thường xuyên nó vẫn liên tục thay đổi tự thích ứng với những nhu cầu mới và hoàn hảo mới”. (When thinking about education we must not forget that it has the growing quality of a living organism. While it has permanent to new demands and new circumstances).
Theo quan niệm sơ khởi của Ðông phương định nghĩa rằng chữ “Giáo” nghĩa là dạy, là sự rèn luyện về đường tinh thần nhằm phát triển trí thức và huấn luyện tình cảm đạo đức. “Dục” nghĩa là nuôi nấng, săn sóc về mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự đào luyện con người về cả ba phương diện trí huệ, tình cảm và thể chất.
Như trong quyển “Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống“ của Krishnamurti viết: “Mục đích của giáo dục đích thực là rèn luyện trau dồi mối tương giao chính đáng không chỉ giữa các cá nhân, nhưng cũng giữa cá nhân và xã hội”.
Nhận định của HT. Thích Thiện Siêu trong bài viết: “Bàn về mục tiêu của Giáo Dục Phật Giáo”, Hòa Thượng dưới cách nhìn của một nhà tư tưởng Phật học nhận định rằng: Hạnh phúc mà con người mong cầu cũng là tiền tài, danh vọng, địa vị, tình yêu, sự thành đạt, sự tận tụy hy sinh v.v… Ngài cho rằng những yếu tố đó sẽ mang đến hai hệ quả: Ðược thì vui và hạnh phúc (dù chỉ nhất thời) không toại ý thì khổ sở và tuyệt vọng. Về phương diện này Hòa Thượng đánh giá như sau: “Bao lâu ý nghĩa hạnh phúc chưa được xác lập thì xã hội còn phải mò mẫm phương hướng phát triển. Lịch sử đã ghi nhận bao nền văn minh đã sụp đổ vì những mục tiêu sai lạc trong phương hướng phát triển… chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật suy thoái đạo đức, ô nhiễm môi sinh… là kết quả của những sai lạc ấy. Giáo dục phải chia sẻ trách nhiệm và xã hội trước những hậu quả gây khổ đau khôn lường đó”.
Theo HT Thích Minh Châu: “Sự nghiệp giáo dục chỉ có thể thành công chừng nào sự nghiệp ấy trở thành ý thức và trách nhiệm chung của tất cả mọi người. Thiếu mất ý thức và trách nhiệm này, chúng ta không thể nói đến giáo dục hay xây dựng một môi trường tốt đẹp cho con người”.(Tập văn Thành đạo PL: 2538)
Theo Platon, giáo dục Phật giáo là con đường đưa con người đến một viễn cảnh của sự toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ. Với giá trị ưu việt của nền giáo dục Phật giáo, không riêng Albert Einstein mà Herbert George Wells (1866 – 1964) nhà cải cách xã hội, sử gia triết học người Anh đã nhận định: “Phật giáo mang lại sự tiến bộ cho thế giới văn minh và văn hóa chính đáng nhiều hơn bất cứ ảnh hưởng nào khác trong tiến trình nhân loại”.
Sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ đề, Đức Thế Tôn liền nghĩ về vấn đề giáo hóa chúng sanh, và từ đó Ngài đến vườn Lộc Uyển gặp những người bạn đồng tu với Ngài trước đây để giới thiệu những chân lý mà chính bản thân Ngài đã thực chứng đó là Lý Duyên sinh và con đường Trung Đạo. Đây là bước đầu mà Đức Phật trình bày kết quả về sự khổ đau, nguyên nhân khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau để có sự an lạc “Pháp Tứ Diệu Đế”. Đức Thế Tôn từ khi hành đạo cho đến khi nhập Niết Bàn, 49 năm truyền bá chánh pháp Ngài duy nhất giáo hóa mọi người hướng đến con đường thánh thiện. Đặc biệt với chúng đệ tử xuất gia, Đức Phật đã tùy căn cơ, nhân duyên, phương tiện chuyển hóa rất nhiều người đủ các giai cấp trong xã hội cực đoan thời bấy giờ. Do đó, hội chúng xuất gia đệ tử Ngài có nhiều vị là Tăng, Ni chứng đắc thánh quả A-la-hán, trở thành những bậc thừa tự Pháp và truyền giảng Chánh pháp giữa đời này, làm cho Phật pháp lan rộng khắp nơi. Phương pháp của Ngài là du hành khất thực và thuyết pháp từ kim khẩu của mình, bằng tất cả tâm lực từ bi, hạnh nguyện vị tha và oai nghi khả kính của Đức Thế Tôn đã làm cho những người nghe được lợi lạc và chuyển hóa. Các chúng đệ tử thì thực hành nếp sống Lục Hòa và Tứ Nhiếp Pháp trong đời sống Tăng đoàn thanh tịnh. Ðiều này thể hiện rõ nét Phật giáo tiêu biểu cho một hệ thống giáo dục toàn mỹ.
GIÁO DỤC TINH THẦN PHỤNG SỰ TAM BẢO, PHỤNG SỰ CHÚNG SINH
Thông điệp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn truyền lại cho chúng ta là Phụng sự chúng sinh là cúng dường 10 phương Chư Phật, trong Kinh A Hàm có nói về mục đích Đản sinh của Phật Thích Ca: “Một chúng sinh duy nhất , một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho muôn loài”.
Chúng ta có thể vừa sống cho mình mà đồng thời biết chia sẻ, giúp đỡ người khác. Điều cốt lõi là chúng ta phải học cách duy trì và trưởng dưỡng tinh thần phụng sự, đừng để những bận rộn cá nhân cản trở mục đích sống cao thượng của mình. Mỗi người chúng ta đóng góp phần nhỏ của mình vào ngôi nhà Phật Pháp.
Tính Giải Thoát Qua Lời Phật Dạy:
Đây là đặc tính quan trọng nhất của giáo pháp Đức Phật. Giáo dục Phật giáo có năng lực giúp người tu chuyển hóa thân tâm từ chúng sinh phàm phu trở thành bậc Thánh. Người đệ tử Phật thực hành giáo pháp từng bước trau dồi “Giới-Định-Tuệ” để thành tựu giác ngộ, giải thoát phiền não khổ đau, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ở Kosambi, bên bờ sông Gangà (Hằng Hà), khi thấy một khúc gỗ lềnh bềnh trên mặt nước, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo lại, chỉ khúc gỗ và giảng dạy về con đường giải thoát. Ngài dạy: “Nếu khúc gỗ không hư nát trong ruột, không tấp vào hai bên bờ, không bị vướng vào nước xoáy, không bị loài người hay các loài khác nhặt, thì nhất định khúc gỗ ấy trôi thẳng về biển. Cũng thế, người tu sĩ nếu không như khúc gỗ hư ruột (chỉ tà kiến của người tu, hay chỉ các ngoại đạo), nếu không tấp vào hai bờ (có nghĩa là không vướng mắc vào các căn, các trần), nếu không mắc vào nước xoáy (nếu không ngã mạn), nếu không bị người ta nhặt (nếu không bị ràng buộc nhiều với người đời, cư sĩ), nếu không bị phi nhơn, chư Thiên nhặt (chỉ người tu cầu sanh Thiên để hưởng các phước lạc), thì nhất định người tu sĩ ấy sẽ như khúc gỗ, trôi thẳng về biển, sẽ vào biển Thánh, thành tựu Phạm hạnh, chứng ngộ giải thoát Niết-bàn”. (Kinh Tương Ứng Bộ IV, Phẩm Rắn Độc, ví dụ về khúc gỗ)
Những lời dạy của Thế Tôn có khi rất cụ thể, rất ngắn gọn, rất giản dị, nhưng vẫn nói lên ý nghĩa thâm sâu và chứa đựng cả nội dung giáo lý Phật giáo: “Cỏ làm hại ruộng vườn, Tham làm hại người đời, Bố thí, người lìa tham, Do vậy được quả lớn”. (PC 356).
Có những khi Thế Tôn dạy vừa cụ thể, rõ ràng, thi vị, lại vừa rất triết lý. Biển của người đời là một trong vùng nước rộng, còn biển trong giáo lý của Ngài thì:“Này các Tỷ-kheo, mắt là biển của người… Tai, mũi, lưỡi, thân và ý là biển của người… Ai vượt qua được các biển ấy với nước xoáy, với sóng lớn, với cá mập, La-sát… thì đến bờ biển (Niết-bàn)” (Tương Ưng Bộ Kinh IV, phẩm Biển).
Trong Kinh Tạp A Hàm II, kinh số 706, Ðức Phật dạy: “Này Chư Tỳ kheo, có năm pháp, có thể làm tối tăm; làm cho không mắt, làm cho không trí, làm cho suy tư kém trí tuệ, chẳng minh, chẳng đẳng giác, chẳng chuyển hướng Niết Bàn. Những gì là 5? Ðó là tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi hoặc. Năm pháp này làm cho ta tối tăm, không thấy…chẳng hướng đến Niết Bàn.”
Nhìn lại công tác giáo dục của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết, từ năm 1930, công tác hình thành hệ thống giáo dục đã được thành lập, mang tính tự phát theo đặc thù của dân tộc. Lại nữa trước đây tại Việt Nam, hệ thống trường Bồ Đề của Phật giáo phát triển khá mạnh ở một số tỉnh ở miền Trung và miền Nam. Trường gồm các lớp tiểu học và trung học, dạy theo chương trình của Bộ Giáo dục và có thêm một số tiết Phật học. Sau năm 1975, thật đáng tiếc hệ thống trường Bồ Đề ngưng hoạt động .
Nhu cầu và mục tiêu đào tạo: Nền giáo dục Phật giáo nhấn mạnh ba trụ cột quan trọng là Giáo dục đạo đức, Giáo dục thiền định và Giáo dục trí tuệ. Xác định mục tiêu lớn nhất của Tăng Ni là điều phục tâm, là hướng đến giải thoát và giác ngộ. Sức mạnh giáo dục trở thành mẫu mực và lý tưởng cho tất cả chúng ta qua mọi thời đại.
Theo HT Giác Toàn, «Qua giáo dục đạo đức, người học Phật rèn luyện nhân cách, phẩm chất cao quý, trở nên vị tha, sống tôn trọng luật pháp và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mình và người. Bằng giáo dục thiền định, người học Phật ý thức sâu sắc về sự hiện hữu của bản thân, làm chủ cảm xúc, thực tập thiền định mỗi ngày giúp cho con người tiếp xúc thực tại hiện tiền với hạnh phúc sâu lắng, trở nên điềm tĩnh, sáng suốt. Ngoài ra, người tu học Phật được hướng dẫn kỹ năng phát triển trí tuệ, gồm trí tuệ do học Phật, trí tuệ do thẩm nghiệm Phật pháp và trí tuệ do thực tập thiền định »
Vậy làm thế nào để những người có trách nhiệm đào tạo và những người tham gia thọ học, tiếp nhận sự đào tạo cùng có chung một mục tiêu, một định hướng, lý tưởng… là HỌC ĐỂ TU. Nét đẹp đặc sắc của Giáo dục Phật giáo là đưa con người từ phàm phu đến hiền thánh. Qua giáo dục Phật giáo, con người được thọ học Kinh, Luật, Luận của giáo pháp Đức Phật hiểu biết một cách rõ ràng, chắc chắn và với năng lực tự thân, tỉnh giác, biết ứng dụng pháp học, chuyển hóa chính mình, làm nên một đời sống tốt đẹp. Thân có Giới, con người làm chủ được bản thân không còn những hành động bất thiện. Khẩu và Ý có Định-Tuệ… con người sẽ làm chủ được mình trong mọi lúc mọi nơi. Phát huy được năng lực tu tập và un đúc tinh thần phụng sự Tam Bảo, phụng sự chúng sanh, sẳn sàng gánh vác trọng trách của Giáo Hội giao phó sau khi tốt nghiệp tại các trường Phật học.
Kính bạch Chư Tôn Đức
Giáo hội Phật giáo Việt nam được thành lập vào ngày 07 tháng 11 năm 1981. Trải qua 40 năm được thành lập GHPGVN không ngừng nỗ lực vươn lên, từng bước củng cố, phát triển và lớn mạnh về mọi mặt, thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp, và thực hiện theo phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. GHPGVN gồm có 13 Ban (ngành), viện trung ương; trong đó Ban Giáo dục Tăng Ni đã góp phần không nhỏ cho sự thành tựu chung của Giáo hội.
Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương được thành lập năm 1984, nhằm giữ vai trò lãnh đạo trong việc quản lý, điều hành các Ban Giáo dục Tăng Ni cấp tỉnh thành cũng như các hoạt động giáo dục Phật giáo trong các trường Phật học trên toàn quốc, bao gồm các lớp Sơ cấp, các trường Trung cấp Phật học, lớp Cao đẳng Phật học, các Học viện Phật giáo Việt Nam. Mục đích của Ban là quản lý và đào tạo các thế hệ Tăng Ni toàn diện kiến thức về Phật học, khoa học và xã hội; có đầy đủ đạo đức, trí tuệ và sức khoẻ để tinh tấn trong tu học và phục vụ lợi ích nhân sinh. Đồng thời, đào tạo Tăng Ni có khả năng đáp ứng các yêu cầu nhập thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhằm đáp ứng sự nghiệp phát triển Phật giáo Việt Nam.
Hiện nay, cả nước có bốn Học Viện Phật giáo Nam Trung Bắc và Học Viện Khơme, tám lớp Cao Đẳng Phật học; 32 Trường Trung cấp Phật học và rất nhiều lớp Sơ cấp Phật học, tạo thành một hệ thống các cấp học đường khá hoàn thiện, đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni có trình độ Phật học và thế học, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và phát triển GHPGVN đồng thời xây dựng đất nước Việt Nam vững mạnh.
Hệ thống giáo dục học đường Phật giáo tại Việt Nam hiện nay gồm có Sơ cấp, Trung cấp Phật học, Cao đẳng Phật học và Học viện Phật giáo.
* Về Mục tiêu đặt ra cho Trường Sơ cấp Phật học:
Làm thế nào đào tạo Tăng Ni sinh hiều rõ về cuộc đời Đức Phật và các Thánh đệ tử, hành trì Oai nghi, phát tâm Bồ đề qua các Kinh Luật được học như Lược sử Đức Phật và Thánh Chúng, Tỳ Ni Oai nghi, Quy sơn cảnh Sách, Phát Bồ đề Tâm Văn, Bát Đại Nhơn Giác, Phật học Giáo Khoa Thư, 214 Bộ Chữ Hán, Phật học Danh Số,…Mục tiêu đặt ra là tất cả nhằm nuôi dưỡng tâm hạnh xuất gia của một Tăng Ni mới vào Đạo.
** Về Mục tiêu đặt ra cho Trường Trung cấp Phật học:
Các môn học được đào tạo tại TCPH theo chương trình 4 năm trước kia hay hiện tại 3 năm gồm: Phật học căn bản, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, Lược Sử Phật giáo Ấn Độ, Kinh Pháp Cú, Bách Pháp Minh Môn Luận, Kinh Thập Thiện, Luật Tỳ kheo- Bồ Tát, Lịch sử PG Việt Nam, Thiền học Đời Trần, Duy Thức, Thiền Lâm Bảo Huấn và các môn học ngoại điển như Pháp Luật, Lịch sử Việt Nam, Anh Văn Căn Bản, Hán Văn, Việt Văn…tùy theo sự phân bổ của các Trường TCPH ở mỗi tỉnh thành, để tạo cho Tăng Ni sinh nền tảng văn huệ, tư huệ, tu huệ, hướng đến đời sống thanh tịnh và giải thoát cho tự thân, tha nhân và cộng đồng xã hội.
Ngoài ra, theo ý kiến chủ quan của chúng tôi, mục tiêu đào tạo tại Trung cấp Phật học còn là đào tạo ra một Tăng Sĩ Phật giáo sau khi tốt nghiệp TCPH có khả năng quản lý một cơ sở Tự viện, hướng dẫn đạo tràng tu học và tham gia Phật sự của Giáo Hội địa phương.
Xác Định Hướng Đi Của Ban GDPGBP
Giáo dục Truyền thống thời Đức Phật: đưa đến giác ngộ, cứu cánh giải thoát. Phương pháp của Ngài là du hành khất thực và thuyết pháp từ kim khẩu của mình, bằng tất cả tâm lực từ bi, hạnh nguyện vị tha và oai nghi khả kính của Đức Thế Tôn đã làm cho những người nghe được lợi lạc thiết thực và chuyển hóa, an lạc-giải thoát.
“Hạnh phúc thay!Chư Phật giáng sinh, Hạnh phúc thay!giáo pháp cao minh,Hạnh phúc thay!Tăng già hòa hợp, Hạnh phúc thay! Tứ chúng đồng tu”.
Tăng Ni được tiếp cận với nền khoa học công nghệ, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập, trực tiếp giúp mở rộng mạng lưới giáo dục qua các chương trình Phật học và thế học. Bên cạnh những mặt tích cực thì vấn đề các Tăng Ni trẻ ngày nay đã dành nhiều thời gian cho sự “Học”, ít thời gian cho sự “Tu” cùng với khuynh hướng hướng ngoại thật sự đang là điều đáng quan ngại. Nguy cơ bị biến chất, thế tục hóa của Tăng Ni trẻ hiện nay là việc mà chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội cần lưu tâm nhiều hơn nữa để sớm có những biện pháp ngăn ngừa và cải thiện hiệu quả. Mặt khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận tính tích cực của phương pháp gia giáo trước đây. Dưới sự dạy dỗ có tính cách gia giáo, thầy trò khắng khít bên nhau như tình cha con. Bằng thân giáo là chính, người thầy đã cảm hóa được đệ tử mình một cách tốt nhất. Thiết nghĩ, giáo dục Phật giáo Việt Nam nên có giải pháp nhằm kết hợp tính ưu việt gần gũi của tự viện với tính đa dạng dễ tiếp cận của giáo dục hiện đại trong một hệ thống vừa chú trọng pháp học nhưng cũng đặt nặng yêu cầu về pháp hành.
Do vậy, để giáo dục Tăng Ni có hiệu quả thì dù ở bất cứ thời gian, quốc độ nào, các cơ sở giáo dục của Phật giáo cần giữ vững truyền thống tốt đẹp của Giáo dục Phật giáo thì yếu tố đầu tiên là tự thân mỗi vị Tăng Ni phải ý thức tu hành với hành trang Giới-Định-Tuệ, nỗ lực hành trì theo lời Phật dạy hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ. Giáo hội cần quan tâm đến đời sống Tăng Ni, theo dõi và ngăn chặn kịp thời các hành vi thế tục hóa. Các trường Phật học phải trang bị kiến thức, xây dựng chương trình giáo dục thực tiễn, áp dụng ngay vào đời sống tu học hằng ngày để hoàn thiện chính mình và đem sự hoàn thiện đó góp phần phụng sự nhân sinh..
Cần lắm những ý kiến đóng góp của Chư Vị Thạc Đức Và Tập Thể Thành Viên BGDPG chung tay đồng hành.
Kính chúc quý Ngài Vô Lượng An Lạc. Chúc Hội Nghị Thành Công Tốt Đẹp